Bệnh Marek ở gà – Cách nhận biết và phòng tránh hiệu quả

Bệnh Marek ở gà xuất hiện ở nước ta vào khoảng năm 1978 với tên gọi là teo chân gà, ung thư gà hay hội chứng khối u… 

Bệnh gây ra bởi virus Herpes type B. Phương thức lây truyền chính là thông qua đường hô hấp và ăn uống. Những vảy bụi da và lông gà nhiễm bệnh Marek sẽ giữ những khả năng lây nhiễm bệnh tới hơn một năm, gà con thường sẽ dễ bị nhiễm bệnh. Khi bị nhiễm virus, gà có thời kỳ ủ bệnh rất dài, tối thiểu là 28 ngày, thường là sau 2 tháng.

Khi gà mắc bệnh Marek sẽ có tỷ lệ chết cao, có đàn còn lên tới 60-70%. Hiện nay chúng ta vẫn chưa có được thuốc để điều trị dứt điểm căn bệnh này. Do vậy, việc nhận biết căn bệnh và những biện pháp phòng chống là vô cùng quan trọng.

Trực tiếp đá gà Thomo

Nguyên nhân gây bệnh Marek ở gà

Nguyên nhân gây bệnh Marek ở gà

Marek là một căn bệnh truyền nhiễm của gà do một loại virus thuộc nhóm herpes gây ra. Đến nay người ta đã có thể phân lập được ba loại virus herpes:

Serotype 1: Những chủng tạo ra khối u, có độc lực cao và thường thay đổi.

Serotype 2: Những chủng bên ngoài tự nhiên, không gây ra những khối u.

Serotype 3: Những chủng có độc lực rất thấp, không gây nên bệnh, chủ yếu là trên gà tây. Và thường được sử dụng để làm vaccine.

Tỷ lệ mắc bệnh là từ 10 – 60%.

Tỷ lệ gà bị chết có thể lên đến 100%.

Gà thường mắc bệnh sau khoảng 6 tuần tuổi và xảy ra chủ yếu ở độ tuổi 8 – 24 tuần. Ngoài gà ra thì còn có ghi nhận bệnh xảy ra trên cả thủy cầm và các loại chim.

Bệnh có đặc điểm là sự tăng sinh cao độ các tế bào lympho dưới hình thức khối u ở những tổ chức thần kinh ngoại biên, các cơ quan nội tạng, da và cơ làm cho xuất hiện các triệu chứng rối loạn về vận động và bại liệt.

Con đường lây truyền bệnh Marek ở gà

Bệnh Marek ở gà có thể lây lan nhanh và mạnh trên đàn gà vì virus này có ở trong các nang lông. Sau khi bị nhiễm bệnh 14 ngày, gà con sẽ lây bệnh cho nhau.

Virus có thể tồn tại rất nhiều tháng trong môi trường và ở nhiệt độ từ 20-25 độ C và hàng năm còn ở 4 độ C. Khi xâm nhập vào đàn, virus sẽ có khả năng lây lan rất nhanh với những gia cầm chưa được tiêm phòng. Gà nhiễm bệnh tiếp tục mang trùng và là một nguồn lây bệnh trong thời gian dài. Virus có thể lan truyền rất xa ở trong không khí.

Bệnh được lây trực tiếp từ gà ốm sang gà khoẻ bằng đường hô hấp và lây gián tiếp qua đường thức ăn, nước uống, những dụng cụ chăn nuôi và cơ sở ấp trứng có chứa mầm mống gây bệnh.

Bệnh không lây qua phôi.

Con đường lây truyền bệnh Marek ở gà

Triệu chứng bệnh Marek ở gà

Đá gà cựa dao

Bệnh tiến triển chủ yếu ở cả hai thể đó là cấp tính và mãn tính.

Thể cấp tính: Chủ yếu ở gà từ 4 – 8 tuần tuổi hoặc có thể sớm hơn.

Bệnh ít có những triệu chứng điển hình, ngoài hiện tượng bị chết đột ngột. Tỷ lệ chết thường cao, có khi còn lên tới 20 – 30%, thường thể hiện đó là triệu chứng gà ủ rũ và gầy yếu trước khi chết.

Gà thường bỏ ăn, ỉa phân lỏng và giảm tỷ lệ đẻ, đi lại rất khó khăn, bại liệt, sã cánh sang một bên do bị viêm dây thần kinh vận động.

Thể mãn tính (thể cổ điển): Chủ yếu xảy ra ở gà khoảng từ 4 – 8 tháng tuổi thường ở cả hai thể, thể thần kinh và thể mắt.

+ Thể thần kinh: gà bệnh đi lại rất khó khăn, liệt nhẹ rồi dần dần sẽ bại liệt hoàn toàn. Đuôi gà có thể bị rủ xuống hoặc là lệnh sang một bên. Cánh sã xuống một bên hoặc là cả hai bên.

+ Thể viêm mắt: Trong nhiều ổ dịch, gà thường bị viêm mắt. Bệnh bắt đầu bằng hiện tượng đó là viêm mắt nhẹ. Gà tỏ ra rất mẫn cảm với ánh sáng, bị chảy nước mắt trong. Dần dần viêm màng tiếp hợp rồi đến viêm mống mắt. Mủ trắng đóng dầy trong khoé mắt, khả năng nhìn sẽ kém dần, không mổ trúng được thức ăn và cuối cùng có thể bị mù.

Bệnh tích

Nhìn chung gà chết nghi do bệnh Marek thường có xác gà rất gầy mòn. Xác gà chết sẽ có một chân đưa về phía trước và một chân về phía sau.

– Thể cấp tính: Từ ngoài vào trong chúng ta nhận thấy da gà bị sần sùi, lỗ chân lông nở to và dày lên thành từng cục. Tiếp đến là những khối u ở nội tạng như: gan, lách, thận, phổi, buồng trứng, dịch hoàn…

Thể u lan tràn: U thường có ở gan, lách, thận, phổi, buồng trứng, túi fabricius, dịch hoàn … gan, lách bị sưng to hơn nhiều lần so với bình thường, màu nhạt và bị bở. 

Thể u hạt: Khối u ở thể hạt làm mặt gan trở nên sần sùi với nhiều những nốt to nhỏ không đồng đều nhau màu trắng xám. Trường hợp khối u ở đường tiêu hóa như là dạ dày tuyến, thành ruột, sẽ làm cho tổ chức này dày lên. U ở cơ làm cho tổ chức cơ phồng to, mặt cắt khối u màu trắng xám là do thâm nhiễm bạch cầu.

+ U ở gan

+ U ở dạ dày cơ

+ U ở ruột

+ U ở tim

– Thể mãn tính: bệnh tích chủ yếu đó là hiện tượng viêm tăng sinh các dây thần kinh ở ngoại vi. Dây thần kinh hông, thần kinh cánh bị sưng to bất thường, có khi to hơn 4 đến 5 lần so với bình thường và có thể bị phù thũng. Ngoài bệnh ở tổ chức thần kinh còn một số bệnh tích khác như là các cơ bị teo, mắt mù, con ngươi bị biến dạng.

Bệnh Marek rất dễ bị nhầm lẫn với bệnh Lơ-cô và căn bệnh Niu-cat-xơn:

Khối u ở bệnh Marek nó không có ranh giới với những cơ quan bình thường và lát cắt khô không đều màu, đôi khi có điểm tụ huyết hoặc xuất huyết đây chính là đặc điểm để phân biệt với bệnh Lơ-cô (Leuco).

Còn bệnh Niu-cat-xơn đặc trưng bởi những điểm xuất huyết bên trên bề mặt ở thực quản, dạ dày tuyến, dạ dày cơ và không tạo thành khối u ở nội tạng như bệnh Marek.

Cách phòng, trị bệnh Marek ở gà

Cách phòng, trị bệnh Marek ở gà

Bệnh Marek ở gà không có thuốc chữa đặc hiệu.

Cần phải thực hiện tốt những biện pháp phòng bệnh sau đây :

Khi chưa có dịch xảy ra:

– Tiêm vắc xin phòng bệnh Marek bắt buộc cho đàn gà con 1 ngày tuổi.

– Thực hiện nghiêm ngặt những biện pháp vệ sinh phòng bệnh thú y, chăm sóc và nuôi dưỡng để ngăn chặn bệnh Marek lây lan bên trong khu chuồng nuôi. Hàng ngày quét, nhặt thu dọn lông và đốt hết tất cả lông vì vi rút tồn tại rất lâu trong chân lông.

– Đối với các trại gà chăn nuôi công nghiệp nhất thiết cần phải có khu riêng tách biệt nuôi gà mái đẻ và khu nuôi gà con, phải tuyệt đối chấp hành những nguyên tắc: cùng nhập, cùng xuất (gà đưa vào nuôi cùng một lúc hoặc xuất ra phải cùng một lúc). Sau khi xuất chuồng phải tiến hành tổng tẩy uế chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi bằng những loại thuốc khử trùng ,sau đó phải để chuồng trại trống ít nhất là 1 tháng. Riêng đối với đàn đã bị nhiễm bệnh trước đó phải để trống chuồng ít nhất là 3 tháng và thường xuyên vệ sinh tiêu độc khử trùng.

– Thực hiện những biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Chú ý không nuôi lẫn lộn gà lớn và gà con.

Khi có bệnh dịch xảy ra:

– Giám sát nhằm phát hiện sớm.

– Cách ly đàn gà mắc bệnh, không được vận chuyển gà ở trong đàn đã bị nhiễm bệnh ra ngoài.

– Tiêu huỷ toàn bộ cả đàn bị mắc bệnh (bằng cách đốt, sau đó chôn giống như đối với bệnh dịch cúm gia cầm), đồng thời xử lý những chất tồn dư (phân, rác vv..).

– Vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng trại định kỳ là 1 – 2 lần/1 tuần, phun thuốc khử trùng BIO-DINE (đặc biệt khuyến cáo đối với bệnh Marek, Niu-cát-xơn…) 

– Cấm không được nhập gà giống về nuôi trong thời gian xử lý đàn gà bệnh.

– Để chuồng trống ít nhất là 3 tháng.

Trên đây là những thông tin về nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng bệnh Marek ở gà hiệu quả mà chúng tôi tổng hợp được. Hy vọng nó sẽ hữu ích với anh em chăn nuôi gà, hãy truy cập daga.me thường xuyên để cập nhật những kiến thức mới nhất về các loại gà nhé.